Cây
vải có nguồn gốc ở các vùng có lượng mưa hàng
năm là 1.250 – 1.700 mm, độ ẩm không khí là 75 – 85%
nên nó chịu được độ ẩm không khí cao ở thời kỳ
sinh trưởng thân lá. Trong những tháng mưa nhiều, bộ lá
cây vẫn xanh tốt. Vải kém chịu úng hơn các cây khác
như ổi, táo ta, nhãn nhưng có khả năng chịu hạn tốt
hơn. Tháng 11 – 12, cây vải cần thời tiết khô và rét
để phân hoá mầm hoa.
kỹ thuật chắm sóc vải thiều.
Nhiệt
độ là nhân tố chủ yếu tác động đến sinh trưởng
dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực của cây vải. Cây
vải sinh trưởng tốt ở những vùng có nhiệt độ bình
quân năm từ 21 – 250C. Giống chín muộn ở 00C và giống
chín sớm ở 40C thì ngừng sinh trưởng dinh dưỡng. Khi
nhiệt độ từ 8 – 100C thì khôi phục sinh trưởng, 10 –
120C sinh trưởng chậm, 210C trở lên sinh trưởng tốt, 23
– 260C sinh trưởng mạnh nhất.
Thể
nguyên thuỷ của hoa vải là mầm hỗn hợp, có hoa, có
lá. Nhiệt độ cao ức chế sự hình thành các cơ quan hoa
mà thiên về sinh trưởng dinh dưỡng, thúc đẩy sự phát
triển của lá. Trái lại, nhiệt độ thấp thúc đẩy sự
phân hoá cành hoa nhỏ và cơ quan hoa, ức chế sự phát
dục thể nguyên thuỷ của lá, thiên hướng về sinh thực.
Quá
trình phân hoá mầm hoa vải liên quan chặt chẽ tới nhiệt
độ, nhiệt độ từ 0 – 100C thuận lợi cho chùm hoa phân
nhánh và phân hoá mầm hoa. Ở 11 – 140C cành hoa và lá
đều có thể phát triển thành các chùm hoa có giá trị
kinh tế, ở 18 – 190C trở xuống vẫn có thể hình thành
chùm hoa nhỏ, nhiều lá nhưng không có giá trị về kinh
tế.
Nhiệt
độ còn ảnh hưởng tới tỷ lệ đực cái của hoa vải.
Quan hệ giữa nhiệt độ bình quân ngày của tháng 1 – 2
và tỷ lệ phần trăm hoa cái trong năm có mối tương quan
nghịch, R = – 0,86 có nghĩa là nhiệt độ càng thấp thì
tỷ lệ hoa cái càng cao.
Ngoài
ra, nhiệt độ còn ảnh hưởng tới thời kỳ nở hoa và
sự phát triển của quả. Nhiệt độ bình quân hữu hiệu
càng cao thì quả sinh trưởng phát triển càng nhanh, ngược
lại, nhiệt độ thấp thì sinh trưởng của quả càng
chậm. Nhiệt độ là một trong những nhân tố khí hậu
chính không điều khiển được, nó quyết định diện
tích trồng trọt và ảnh hưởng rõ rệt đến năng suất
cây trồng.
2.
Mưa và độ ẩm
Những
tháng mùa hè và mùa thu là thời gian cây vải sinh trưởng
mạnh yêu cầu lượng nước lớn. Những tháng mùa đông,
mưa nhiều, vải dễ phát lộc đông, không thuận lợi cho
phân hoá mầm hoa. trong giai đoạn phân hoá mầm hoa, đủ
nước thì tổng số hoa/chùm và số hoa đực/chùm giảm
nhưng số hoa cái không bị ảnh hưởng nhiều nên tỷ lệ
hoa cái tăng. Mưa nhiều trong thời gian hoa đang nở dẫn
đến làm thối hoa, tỷ lệ đậu quả rất thấp có thể
dẫn đến mất mùa.
Cây vải có nguồn gốc ở các vùng có lượng mưa hàng năm
là 1.250 – 1.700 mm, độ ẩm không khí là 75 – 85% nên nó
chịu được độ ẩm không khí cao ở thời kỳ sinh
trưởng thân lá. Trong những tháng mưa nhiều, bộ lá cây
vẫn xanh tốt. Vải kém chịu úng hơn các cây khác như
ổi, táo ta, nhãn nhưng có khả năng chịu hạn tốt hơn.
Tháng 11 – 12, cây vải cần thời tiết khô và rét để
phân hoá mầm hoa
3.Ánh sáng
Cây
vải cần ánh sáng chiếu quanh năm đặc biệt là thời kỳ
hình thành, phân hoá mầm hoa, hoa nở và quả phát triển.
Tổng số giờ chiếu sáng/năm từ 1.800 giờ trở lên là
khá thích hợp đối với cây vải. Ánh sáng đầy đủ
giúp cho quá trình quang hợp và đồng hoá các chất xảy
ra được thuận lợi tăng tích luỹ chất dinh dưỡng, khả
năng sinh trưởng và phân hoá mầm hoa cũng như ra hoa đậu
quả tốt, số giờ chiếu sáng nhiều thì lượng hoa cái
bình quân trên chùm tăng lên tương ứng.
Cây
vải thích nghi trên nhiều loại đất. Các loại đất như
đất đỏ, đất vàng, đất cát pha, đất phù sa, đất
thịt… cây vải đều có thể sinh trưởng và kết quả
tốt. Rễ vải cộng sinh với nấm rễ, ưa đất có độ
chua nhẹ.
II.
KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC CHO CÂY VẢI THIỀU THANH HÀ
1.
Chuẩn bị đất và quản lý đất trồng.
Đất
được lên luống để dễ thoát nước chống ngập úng.
Khi cần thiết phải xử lý các nguy cơ tiềm ẩn từ đất
(dư lượng kim loại nặng, nitrate, xói mòn, ngập úng…
ảnh hưởng đến cây trồng và sức khỏe người tiêu
dùng), tổ chức và cá nhân SX phải được sự tư vấn
của nhà chuyên môn và phải ghi chép, lưu trong hồ sơ các
biện pháp xử lý.
Trong
vùng sản xuất vải thiều Thanh Hà hạn chế chăn thả
vật nuôi gây ô nhiễm nguồn đất, nước. Nếu bắt buộc
phải chăn nuôi thì phải có chuồng trại và có biện
pháp xử lý chất thải đảm bảo không gây ô nhiễm môi
trường và sản phẩm sau thu hoạch.
Tuỳ
thuộc vào giống, độ màu mỡ của đất đai, điều kiện
khí hậu cũng như khả năng thâm canh, mức độ đầu tư
mà xác định mật độ trồng và khoảng cách trồng vải
thiều Thanh Hà hợp lý. Khoảng cách trồng vải thích hợp
là 7m x 7m hoặc 8m x 8m (mật độ 205 cây và 156 cây/ha).
Trong điều kiện thâm canh cao, có thể trồng với khoảng
cách 3m x 4m hay 4m x 6m (mật độ 832 cây và 416 cây/ha) hoặc
trồng với mật độ trên nhưng đến khi giao tán cách 1
cây chặt bỏ 1 cây còn lại khoảng cách 4m x 6m hay 6m x 8m
(mật độ 416 cây và 208 cây/ha) để khai thác tiềm năng
cho sản lượng cao trong những năm đầu của chu kỳ kinh
doanh do mật độ cao mang lại.
3.
Giống trồng
a.
Giống vải thiều Thanh Hà:
-
Nguồn gốc: Xã Thanh Sơn – Huyện Thanh Hà – Tỉnh Hải
Dương. Hiện ở đây vẫn còn cây vải tổ trên 180 năm,
hàng năm cho năng suất ổn định 300 – 400kg, phẩm chất
quả tốt.
-
Đặc điểm giống: Cây sinh trưởng tốt, tán cây hình
bán cầu cân đối, lá có mầu xanh đậm. Chùm hoa nhỏ,
hình cầu, cuống hoa có mầu vàng xanh. Quả hình cầu, khi
chín có mầu đỏ tươi, gai thưa, ngắn. Trọng lượng quả
trung bình 20,7g (45 – 55 quả/kg), tỷ lệ phần ăn được
trung bình 75,0%, độ Brix 18 – 21%, thịt quả chắc, vị
ngọt đậm, thơm. Năng suất trung bình cây 8 – 10 tuổi
55kg/cây (8 – 10 tấn/ha). Đây là giống chín chính vụ,
thời gian cho thu hoạch 5/6 – 25/6.
-
Giống vải thiều Thanh Hà phải có nguồn gốc rõ ràng,
cơ sở nhân giống và sản xuất giống phải được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép.
-
Giống vải thiều Thanh Hà tự sản xuất phải có hồ sơ
ghi lại đầy đủ các biện pháp xử lý cây giống, hóa
chất sử dụng, thời gian, tên người xử lý và mục
đích xử lý.
-
Trong trường hợp giống vải thiều Thanh Hà không tự sản
xuất phải có hồ sơ ghi rõ tên và địa chỉ của tổ
chức, cá nhân và thời gian cung cấp, số lượng, chủng
loại, phương pháp xử lý giống.
b.
Tiêu chuẩn cây giống:
Cây
giống trồng theo tiêu chuẩn ngành 10 TCN – 2001, cụ thể:
cây giống nhân bằng phương pháp ghép được trồng trong
túi bầu polietylen có kích thước tối thiểu: đường
kính x chiều cao là 10 x 22cm. Cây giống phải có sức tiếp
hợp tốt, cành ghép và gốc ghép phát triển đều nhau,
phần vết ghép đã được tháo bỏ hoàn toàn dây ghép,
có bộ rễ phát triển tốt, sinh trưởng khoẻ, không mang
theo những loại sâu bệnh nguy hiểm, có đường kính gốc
ghép cách mặt đất 2 cm là 0,8 – 1 cm, đường kính cành
ghép từ 0,5 – 0,7cm, chiều dài cành ghép từ 30 – 40 cm
và có từ 2 – 3 cành cấp 1 trở lên.
Cây vải thiều Thanh Hà có thể trồng được quanh năm, nhưng
có 2 thời điểm trồng thích hợp nhất là vụ xuân tháng
2 – 4 và vụ thu tháng 8 – 10 dương lịch.
5.
Kỹ thuật trồng:
a.
Đào hố và bón phân lót
-
Đào hố trồng vải phải dựa trên nguyên tắc: đất xấu
đào to, đất tốt đào nhỏ. Thông thường kích thước
hố: dài x rộng x sâu là: 0,8cm x 0,80m x 0,6cm, vùng đồi
đất xấu cần đào hố to hơn, kích thước tương ứng
là: 1m x 1m x 0,8m.
-
Bón lót: cho 1 hố: 30-50 kg phân chuồng; 0,7-1,0 kg supe lân;
0,5 kg vôi bột.
-
Khi đào: để lớp đất mặt một bên, lớp đất dưới
một bên. Lớp đất mặt trộn với toàn bộ lượng phân
bón lót và lấp lên đến miệng hố, lớp đất dưới
đáy xếp thành vồng xung quanh hố.
Công
việc chuẩn bị hố trồng, bón lót được tiến hành
trước khi trồng 1 tháng.
b.
Cách trồng
Khơi
một hố nhỏ chính giữa hố đào, xé bỏ túi bầu và
nhẹ nhàng đặt cây xuống hố, đặt bầu cây giống vào
sao cho cổ rễ bằng hoặc thấp hơn mặt đất 2 – 3 cm,
lấp đất và dùng tay nén chặt xung quanh gốc. Cắm cọc
và dùng dây mềm buộc cố định cây để tránh gió lay
đứt rễ.
Cần
tủ gốc giữ ẩm cho cây sau khi trồng bằng rơm rạ hoặc
cỏ khô rộng 0,8 – 1,0m; dày 7 – 15cm, cách gốc 5 – 10
cm.
Vào
mùa nắng nên dùng rơm rạ, cỏ khô, thân cây đậu đỗ…
để tủ gốc giữ ẩm cho cây. Ngoài việc giữ ẩm cho
cây biện pháp này còn giúp hạn chế sự phát triển của
cỏ dại.
7.Bón phân
7.1.
Giai đoạn kiến thiết cơ bản
• Thời
điểm bón: Hàng năm cần bón thúc cho vải 3 – 4 đợt.
Đợt 1 vào tháng 2 để thúc đẩy ra cành mùa xuân; Đợt
2 vào tháng 5 để thúc đẩy ra cành mùa hè. Đợt 3 vào
tháng 8 để thúc đẩy ra cành mùa thu. Đợt 4 vào vụ
đông (tháng 11) bón supelân và kaliclorua tăng cường khả
năng chống rét cho cây. Trong thời kỳ này cứ cách 1 năm
lại bón cơ bản cho cây thêm phân hữu cơ và vôi bột
vào tháng 7 và tháng 8.
• Liều
lượng bón: Lượng bón cho cây vải năm thứ nhất là:
+
Đạm U rê: 0,1 – 0,15 kg/ cây + Lân Supe: 0,3 – 0,5 kg/cây
+
Kalichlorua: 0,1 – 0,15 kg/cây. Chia đều cho các lần bón.
-
Từ những năm sau lượng bón tăng 40 – 60% so với năm
trước tuỳ thuộc vào tình hình sinh trưởng của cây.
-
Lượng bón cho năm bón cơ bản (cách 1 năm bón 1 năm) vào
tháng 7 – 8 là:
+
Phân chuồng: 30 – 50 kg/ cây + Vôi bột: 0,3 – 0,5 kg/cây
• Phương
pháp bón phân:
+
Hoà phân vô cơ với nước phân chuồng ủ kỹ để tưới
cho cây cách gốc 15 – 20 cm.
+
Cuốc 3 – 4 hố sâu 5 – 7 cm xung quanh tán, bón phân rồi
lấp đất.
+
Rắc xung quanh hình chiếu tán cách gốc 15 – 20cm khi trời
có mưa rào hoặc tưới nước.
7.2.
Giai đoạn kinh doanh: Từ năm thứ 3 trở đi
Tưới
nước, làm cỏ.
-
Ở thời kỳ cây đang cho quả cần cung cấp đủ nước
tưới vào các thời kỳ chính là thời kỳ cây chuẩn bị
ra hoa, thời kỳ quả phát triển.
-
Thường xuyên làm sạch cỏ xung quanh gốc theo hình chiếu
của tán cây để hạn chế cạnh tranh dinh dưỡng.
Bón
phân
• Liều
lượng và tỷ lệ phân bón:
Tuỳ
theo hiện trạng sinh trưởng của cây, sản lượng quả
thu hoạch của năm trước để xác định liều lượng
bón cho cây cho thích hợp. Với những cây nhiều năm tuổi
(cho năng suất bình quân từ 100 kg quả tươi/năm/cây trở
lên) thì có thể bón với lượng như sau: 3 kg Đạm Ure +
2 ml Neb-26 (= 2 lọ 100 ml) + 15 kg NPK (16-16-8+13S) Phú Mỹ +
10 kg Kaliclorua/sào = 360 m2
Lượng
phân bón cho ở thời kỳ mang quả tính theo tuổi cây
Tuổi
cây Lượng phân bón (kg/sào/năm)
Tuổi
cây Lượng phân bón (kg/sào/năm)
Phân
chuồng Đạm ure Neb-26 (ml) NPK (16-16-8+13S) Kaliclorua
4
– 5 30 – 50 0,5 33 2,5 1,7
6
– 7 - 0,9 60 4,5 3,0
8
– 9 - 1,2 80 6,0 4,0
10
– 11 50 – 70 1,5 100 7,5 5,0
12
– 13 - 1,8 120 9,0 6,0
14
– 15 - 2,4 160 12,0 8,0
>15
- 3,0 200 15,0 10,0
• Thời
kỳ và liều lượng bón: Toàn bộ lượng phân được
chia làm 3 lần bón.
-
Lần 1: Bón giai đoạn đậu quả (phân quả xong, quả bằng
hạt mây): 20% đạm urê + 35% Neb-26 + 100% NPK(16-16-8+13S) +
40% kaliclorua.
-
Lần 2: Bón thúc quả giúp quả phát triển nhanh, chống
rụng quả (quả tạo cùi được 1/3 hạt): 13% đạm urê +
35% Neb-26 + 60% kaliclorua.
-
Lần 3: Bón sau khi thu hoạch quả xong 15 ngày, thúc ra lộc
thu (thu hoạch xong, tỉa cành, tạo tán xong): 67% đạm urê
+ 0,6 ml Neb-26.
(Đối
với cây vải trên 15 năm tuổi bón: 3 kg Urê + 200 ml Neb-26
+ 15 kg NPK (16-16-8+13S) + 10 kg kaliclorua/sào. Bón làm 3 đợt:
Đợt 1 quả bằng hạt mây bón 0,6 kgUre+0,7ml Neb-26+15
kgNPK+4 kg kali/sào; Đợt 2 quả tạo cùi bón 0,4kg Ure+0,7ml
Neb-26+6kg kali/sào; Đợt 3 sau thu hoạch 15 ngày bón 2 kg
Ure+0,7 kg Neb-26/sào.
• Cáchbón:
-
Bón phân hữu cơ: đào rãnh xung quanh cây theo hình chiếu
của tán với bề mặt rãnh rộng 20 – 30 cm, sâu 30 cm,
rải phân, lấp đất và tưới nước giữ ẩm. Hoặc có
thể đào 3 rãnh theo hình vành khăn xung quanh tán để bón,
năm sau bón tiếp phần còn lại.
-
Bón phân vô cơ: khi đất ẩm chỉ cần rải phân lên mặt
đất theo hình chiếu của tán, sau đó tưới nước để
hoà tan phân. Khi trời khô hạn cần hoà tan phân trong nước
để tưới hoặc rải phân theo hình chiếu của tán, xới
nhẹ đất và tưới.
Sử
dụng hoá chất, chất điều tiết sinh trưởng
-
Tăng khả năng đậu quả:
+
Trước khi ra hoa: dùng Atonic hoặc kích thích tố thiên
nông (theo chỉ dẫn trên bao bì) phun cho giò hoa 2 lần, lần
1 khi giò hoa mới nhú. Lần 2 trước khi hoa nở 1 tuần, có
thể kết hợp với phun thuốc sâu hoặc thuốc bệnh.
+
Sau khi đậu quả: quả non có kích thước bằng hạt đậu
xanh (đường kính 3- 4 mm), phun Atonic hoặc kích phát tố
thiên nông một lần với nồng độ bằng 1/2 so với chỉ
dẫn. Có thể phun phân Đạm ure nồng độ 0,1 – 0,2% vào
thời kỳ quả non để hạn chế rụng quả.
-
Khống chế lộc đông: cuối tháng 12 đầu tháng 1, phun 1
lần dung dịch Ethrel 1.000 – 1500ppm để loại bỏ bớt
lộc đông này. Với những cây đã có lộc đông, phun ướt
hết phần non ở ngọn cành.
Sử
dụng các biện pháp cơ giới (áp dụng cho những năm thời
tiết bất thuận)
-
Khoanh vỏ: vào cuối tháng 11, đầu tháng 12, khi lộc thu
đã thành thục, chọn những cây sinh trưởng khoẻ, lá
xanh đen (dễ hình thành lộc đông) tiến hành khoanh vỏ.
Khoanh toàn bộ số cành có đường kính từ 5 cm trở lên.
Dùng dao sắc khoanh bỏ hết lớp vỏ đến phần gỗ với
chiều rộng vết khoanh 0,4 – 0,5 cm, theo hình xoắn ốc
1,5 – 2 vòng, xử lý thuốc trừ nấm bệnh cho vết
khoanh.
-
Cuốc sâu làm đứt rễ: cuối tháng 11, đầu tháng 12, khi
lộc thu đã thành thục, chọn những cây có tình trạng
sinh trưởng khoẻ (dễ hình thành lộc đông) tiến hành
cuốc đứt rễ bằng cách đào rãnh sâu 30 – 40 cm phía
ngoài mép tán, cắt đứt một số rễ và để phơi nắng
tự nhiên 30 – 40 ngày, khi lá chuyển màu thì lấp đất
màu và phân hữu cơ hoai mục, tưới nước cho cây sinh
trưởng trở lại.
-
Những năm có mưa vào tháng 11,12, đất ẩm thì sau mưa
xới nông 5 – 7 cm trên bề mặt tán làm đất thông
thoáng, thoát ẩm nhanh hạn chế lộc đông, thúc đẩy quá
trình phân hoá mầm hoa.
9.
Tỉa cành và tạo tán: Mục đích của tỉa cành và tạo
tán là tạo cho cây có bộ khung cơ bản, thông thoáng giúp
cây sinh trưởng mạnh, cho năng suất cao và ổn định,
đồng thời kéo dài giai đoạn kinh doanh. Tỉa cành để
tạo bộ tán đẹp cho cây, hạn chế sâu bệnh và cành
không hiệu quả.
-
Kỹ thuật cắt tỉa:
*
Cắt tỉa tạo hình cho vườn cây kiến thiết cơ bản:
• Tạo
cành cấp 1:
Khi
cây con đạt chiều cao 45 – 50 cm, cần bấm ngọn để
tạo cành cấp 1. Chỉ để lại 3 – 4 cành cấp 1 phân bố
tương đối đều về các hướng. Các cành cấp 1 này
thường chọn cành khoẻ, ít cong queo, cách nhau 7 – 10cm
trên thân chính và tạo với thân chính một góc xấp xỉ
450 – 600 để khung tán đều và thoáng.
• Tạo
cành cấp 2:
Khi
cành cấp 1 dài 25 – 30 cm, ta bấm ngọn để tạo cành
cấp 2. Thông thường trên cành cấp 1 chỉ giữ lại 3
cành cấp 2 phân bố hợp lý về góc độ và hướng.
• Tạo
cành cấp 3:
Cành
cấp 3 là những cành tạo quả và mang quả cho những năm
sau. Các cành này phải khống chế để chúng không giao
nhau và sắp xếp theo các hướng khác nhau để cây quang
hợp được tốt.
*
Cắt tỉa hàng năm cho vườn vải thiều kinh doanh:
-
Cắt tỉa vụ xuân: được tiến hành vào giữa tháng 2
đến giữa tháng 3; cắt bỏ những cành xuân chất lượng
kém, cành mang sâu bệnh và những cành mọc lộn xộn
trong tán, những chùm hoa nhỏ, thưa, mọc sâu trong tán,
chùm hoa bị sâu bệnh. Với cây khoẻ mạnh, chăm sóc tốt
thì có thể tỉa bỏ 20 – 30% số chùm hoa, những cây yếu
cần tỉa bỏ nhiều hơn.
-
Cắt tỉa vụ hè: được tiến hành giữa tháng 5 đến
đầu tháng 6; cắt bỏ những cành hè mọc nhỏ, yếu, mọc
quá xít nhau, chỉ để lại 1 – 2 cành khoẻ trên cành
mẹ. Đồng thời với việc tỉa cành là cắt bỏ những
chùm chùm quả nhỏ, sâu bệnh.
-Cắt
tỉa vụ thu: được tiến hành sau khi thu quả vào cuối
tháng 6 đến đầu tháng 7; tỉa bỏ các cành khô, cành
sâu bệnh và các cành hè mọc quá dài. Khi lộc thu hình
thành mọc dài khoảng 10 cm, tỉa bỏ những mầm yếu, mọc
không hợp lý và chọn để lại 1 – 2 cành thu trên mỗi
cành mẹ.
III.
PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH, CỎ DẠI CHO CÂY VẢI THIỀU THANH HÀ
1.
Bọ xít nâu (Tessaratoma papillosa Drury):
-
Đặc điểm gây hại: trưởng thành qua đông vào tháng
12, 1 sau đó đẻ trứng vào tháng 2, 3, 4, trứng nở, bọ
xít non gây hại các đợt lộc, hoa và quả non.
-
Phòng trừ:
+
Vụ đông, rung cây vào buổi sáng sớm khi lá còn ướt
sương cho bọ xít rơi xuống, tập trung lại và đốt.
+
Ngắt các lá có ổ trứng ở mặt dưới đem tiêu huỷ
+
Phun thuốc diệt bọ xít non bằng Supergun 600 EC
2.
Sâu đục đầu quả (Conopomopha sinensis Bradley):
-
Đặc điểm gây hại: Trưởng thành đẻ trứng trên lộc
non và cuống quả khi quả đang phát triển, sâu non nở ra
đục qua lớp biểu bì ăn sâu vào hạt tập trung gần
cuống quả làm rụng quả, tạo điều kiện cho nấm, vi
khuẩn xâm nhập gây thối quả. Sâu đục đầu quả gây
hại từ tháng 3 – 6.
-
Phòng trừ: + Quét dọn cành lá khô, quả rụng làm giảm
nguồn sâu
+
Khống chế lộc đông.
+
Phun thuốc phòng trừ vào các đợt cuối các tháng 3, 4, 5
và trước thu hoạch 15 – 20 ngày bằng Kampon 600 WP để
phòng trừ.
3.
Rệp hại hoa, quả non (Ceroplastes ceriferus Anderson):
-
Đặc điểm gây hại: Rệp xuất hiện từ khi giò hoa vươn
dài đến khi quả non ổn định, mật độ rệp có thể
lên rất cao (hàng 100 con/1 chùm hoa) gây cháy đọt, thui
hoa, quả.
-
Phòng trừ: Sử dụng các loại thuốc ít ảnh hưởng đến
hoa, quả non như Motsuper 36 WG phun kép 2 lần, lần 1: khi
rệp xuất hiện, lần 2: sau 5 – 7 ngày vào lúc chiều
mát.
4.
Sâu đục thân cành (Apriona germani Hope):
-
Đặc điểm gây hại: Con trưởng thành đẻ trứng vào
các kẽ nứt trên gốc cây, thân và cành chính. Sâu non nở
ra đục vào phần gỗ tạo ra các lỗ đục, trên vết đục
xuất hiện lớp phân mùn cưa đùn ra.
-
Phòng trừ:
+
Phát hiện sớm vết đục, dùng dây thép nhỏ luồn vào
lỗ đục để bắt sâu non
+
Sau thu hoạch quét vôi vào gốc cây để diệt trứng
+
Phun các loại thuốc xông hơi như Supergun 600 EC sau sau đó
dùng đất dẻo bít miệng lỗ lại để diệt sâu.
5.Ngài chích hút (Lagoptera dotata Fabricius):
-
Đặc điểm gây hại: Chích hút dịch quả, gây vết
thương cơ giới cho nấm, vi khuẩn xâm nhập làm thối
quả.
-
Phòng trừ: + Xông khói xua đuổi
+
Bẫy ngài bằng lồng lưới
+
Bẫy bằng bả hoá học: Naled 5% + Metyl Eugenol 95% + dịch
nước cam, dứa, chuối, mía, mít.
(100m2/1
bả).
6.
Nhện lông nhung hại vải (Eriophyes litchii Keifer):
– Đặc
điểm gây hại: Nhện lông nhung phát sinh quanh năm, gây
hại chủ yếu trên các đợt lộc, nặng nhất vào vụ
xuân. Sâu non nở ra chích hút biểu bì mô mặt dưới lá
hút nhựa, kích thích mô lá làm cho lá dị dạng có mầu
nâu đỏ như nhung, mặt trên lá xoăn, phồng rộp phát
triển không bình thường, làm cho lá quang hợp kém, dễ
rụng.
-
Phòng trừ: + Thu gom các lá rụng và cắt bỏ các cành bị
hại nặng đem đốt. Sau thu quả và vụ đông cắt tỉa
cho cây thông thoáng, làm vệ sinh vườn để giảm bớt
điều kiện hoạt động của nhện.
+
Sử dụng thuốc: Oman 2 EC có tác dụng diệt nhện trưởng
thành tốt. Phun cho mỗi đợt lộc 2 lần: lần 1 nhú lộc,
lần 2 lộc ra rộ.
7.Câu cấu hại vải (Xanthochellus sp):
-
Đặc điểm gây hại: Sâu non và trưởng thành cắn cành
non, ăn khuyết lá khi cây xuất hiện những đợt lộc làm
ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây non.
-
Phòng trừ: Sử dụng các loại thuốc Sherpa 0,1%; Sumicidin
0,1%, supraside 0,15% phun vào lúc chiều mát hoặc sáng sớm.
B.
Phòng trừ bệnh hại vải thiều:
1.Bệnh mốc sương (Pseudoreronospora sp):
-
Đặc điểm gây hại: Bệnh gây hại trên chùm hoa, lá đặc
biệt là quả sắp chín và chín làm chùm hoa biến mầu
đen, quả thối và rụng..
-
Phòng trừ: + Sau thu hoạch cắt tỉa cành khô, cành bệnh,
tiêu hủy để hạn chế nguồn bệnh. Phun phòng bằng
Boocdo (1%), Oxiclorua Đồng (0,3%). Khi thấy xuất hiện bệnh
trên hoa quả, dùng Upple 400 SC hoặc AthuocTOP 480 SC để
phòng trừ.
2.Bệnh sém mép lá (Gloeosporium sp):
-
Đặc điểm gây hại: Bệnh do nấm gây ra làm cho các mô
lá bị tổn thương tạo thành các vết khô ở đầu và
mép lá. Bệnh phát sinh vào tháng mùa mưa 7, 8, 9, gây hại
nặng vào tháng 2, 3, 4.
-
Phòng trừ: + Cắt bỏ những cành lá bị bệnh đem đốt
tránh lây lan nguồn bệnh.
+
Phun thuốc đặc trị Ychatot 900 SP hoặc Marthian 90 SP
3.Bệnh thán thư (Colletotrichum gloeosporioides Penz.)
-
Đặc điểm gây hại: Bệnh do nấm gây ra tạo thành các
vết khô ở đầu và mép lá và các đốm trên mặt lá,
ranh giới giữa mô khoẻ và mô bệnh phân biệt rõ rệt.
-
Phòng trừ: + Sau thu hoạch cắt tỉa cành khô, cành bệnh,
gom lại và tiêu hủy.
+
Phun phòng thuốc vào vụ thu đông bằng Haohao 600 WDG
C.
Phòng trừ cỏ dại hại vải thiều.
Cỏ
dại cạnh tranh dinh dưỡng với cây vải thiều và là nơi
trú ẩn của sâu bệnh. Trước mỗi đợt bón phân cần
làm sạch cỏ xung quanh gốc. Phải dọn dẹp, làm sạch cỏ
trong vườn, hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc trừ
cỏ nhằm hạn chế khả năng ô nhiễm đất do thuốc. Nếu
dùng chỉ được phép dùng các loại thuốc nằm trong danh
mục cho phép của Bộ Nông nghiệp & PTNT, nếu sử dụng
thuốc diệt cỏ để xử lý cỏ dại trong vườn thì phải
ghi chép và lưu giữ trong hồ sơ của hộ gia đình, HTX…
ngày phun, loại thuốc Conforn 480 SL và liều lượng đã sử
dụng.
IV.
THU HOẠCH VÀ XỬ LÝ SAU THU HOẠCH VẢI THIỀU.
-
Chấm dứt phun xịt thuốc bảo vệ thực vật và chất
kích thích sinh trưởng trước khi thu hoạch vải thiều 10
– 15 ngày
-
Nên thu hoạch khi quả vải thiều đạt độ chín sinh lý
để quả vải thiều có chất lượng ngon nhất và bảo
quản lâu hơn. Thời điểm thu hoạch vải thiều tốt nhất
là vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Tránh ánh nắng gay
gắt chiếu trực tiếp vào trái làm tăng nhiệt độ trong
quả, gây mất nước ảnh hưởng đến chất lượng và
thời gian bảo quản.
-
Dụng cụ thu hoạch quả vải thiều như kéo cắt cành
phải sắc, bén. Chùm quả sau khi cắt được đựng trong
giỏ, sọt, để trong mát, phân loại sơ bộ và vận
chuyển ngay về nhà đóng gói càng sớm càng tốt. Các
dụng cụ như dao, kéo, giỏ, sọt… được dùng trong thu
hoạch vải thiều nhiều lần phải được chùi rửa, vệ
sinh, sát trùng, bảo quản cẩn thận.
-
Sản phẩm vải thiều sau thu hoạch không được để tiếp
xúc trực tiếp với đất, hạn chế để qua đêm.
-
Không chất quả vải thiều quá đầy giỏ, sọt khi vận
chuyển, giỏ, sọt phải được bao lót kỹ, che phủ bằng
giấy hoặc lá để tránh ánh nắng chiếu trực tiếp vào
quả và tổn thương quả do va chạm trong khi vận chuyển.
|